NGŨ UẨN
(Uẩn là sự kiện chồng chất cảm
giác, tri giác, phản ứng, kinh nghiệm quá khứ lên thực tại.)
Ngũ uẩn bắt nguồn từ sự vận hành của các tâm sở biến
hành cơ bản xúc, thọ, tưởng, tư mà biến thành uẩn. Vì vậy, hiểu được đặc tính,
tướng trạng, tác dụng và sự vận hành của các tâm sở mà chúng ta đã bàn ở trên
thì sẽ dễ dàng hiểu sự tập khởi của ngũ uẩn. Chúng ta có thể so sánh như sau:
Nhiều tôn
giáo và triết thuyết Đông Tây chủ trương con người có một linh hồn hay bản ngã
vĩnh hằng. Thực ra, đó chỉ là những giả thuyết có từ niềm tin tín ngưỡng hay
suy luận triết học hơn là sự kiện có thực. Khổ thay, chính vì niềm tin này mà
con người dựng lên và bám dính vào cái gọi là “Ta, Của Ta và Tự Ngã Của Ta” để
rồi tự đánh lừa mình trong ảo tưởng của chính mình mà hậu quả chỉ kéo dài thêm
luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau.
Đức Phật thấy rõ cái gọi là bản ngã ấy chỉ
là một chuỗi vận hành của những yếu tố
tâm sinh vật lý, trong đó tuyệt không
có một trung tâm hằng hữu nào ngoài năm uẩn sinh diệt, tương tác.
1. SẮC UẨN
Xúc (=
căn + trần + thức) chính là sắc trong ngũ uẩn. Điều này mới nghe qua có vẻ vô lý,
phải không? Nhưng sắc có nhiều nghĩa: Sắc trong sắc pháp bao gồm 28 sắc. Sắc
trong nội sắc gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Sắc trong ngoại sắc gồm sắc, thanh,
hương, vị, xúc. Sắc trong sắc trần là đối tượng của mắt. Sắc trong danh sắc là
ám chỉ thân đối với tâm. Nhưng sắc trong sắc uẩn lại hàm nghĩa xúc của sắc (căn-trần).
Nếu năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức được tách riêng để phân tích thành
phần của từng yếu tố thì sắc đúng là nội sắc mà nội dung chi tiết bao gồm các sắc
pháp liên hệ. Nhưng khi sắc thành uẩn trong sự vận hành tập khởi do mối tương
duyên, tương tác giữa căn, trần, thức mà có, thì nó không còn mang tính vật chất
cố định mà mang tính duyên khởi của một nhóm tâm - sinh - vật - lý.
Căn – sinh lý
Sắc uẩn => Xúc Trần
– vật lý
Thức – tâm lý
Khi có động
dụng tương giao tương tác (xúc) giữa 3 yếu tố trên thì sắc uẩn mới tập khởi, nếu
không có xúc thì sắc vẫn là sắc thuần túy nhưng sắc uẩn không tập khởi. Sắc thì
luôn có mặt, còn sắc uẩn chỉ tập khởi khi có sự tương tác vận hành. Như vậy
trong sắc uẩn vẫn có sắc căn và sắc trần nhưng đó là điều kiện cần chứ không đủ
để hình thành sắc uẩn. Ví dụ có mắt, có sắc nhưng nếu không có tác động hỗ
tương (xúc) thì sắc uẩn không khởi, nhãn căn và sắc trần là sắc pháp chứ không
phải sắc uẩn. Đây là điều có vẻ mới lạ đòi hỏi chúng ta phải khám phá chiêm
nghiệm chứ không chấp nhận suông. Điều đáng ghi nhớ, uẩn có nghĩa là nhóm tập
khởi phức tạp, chồng chất, đan chéo, rối ren nên chúng phải tùy thuộc vào nhau
mà phát sinh, nếu không có sự tương duyên này thì các uẩn sẽ tự diệt hoặc không
sinh khởi. Ví dụ chúng ta đang ngồi đây, có căn, có trần, nghĩa là có sắc, mà sắc
uẩn có thể không khởi nếu không có duyên gì để khởi.
Chữ sắc này - sắc uẩn - mà trong
Thiền Luận, Suzuki dịch là form thì không đúng.
Ngay cả cái
sắc là đối tượng của mắt mà dịch là form cũng đã không đúng rồi. Vì sao vậy?
Vì form chỉ nói lên được mặt hình tướng chứ chưa
nói đến màu sắc, ánh sáng, chất liệu v.v…
Vậy không thể dịch sắc uẩn là form được. "Sắc
uẩn" không thể nào dịch ra tiếng Anh được.
Cứ để nó là Rūpa khandha vậy thôi.
Khi nói "thân ngũ uẩn" là ám chỉ thân kiến,
chấp lầm tập hợp ngũ uẩn là bản ngã. Còn khi nói sắc thân thì chỉ gồm tứ đại,
không đại và tứ đại sở sinh như các căn, các trần v.v. Sắc thân không bao gồm
thức nhưng sắc uẩn là một diễn biến của sự vận hành tập khởi nên ngoài căn - trần
còn có sự tham dự của thức. Xin nhắc lại nhận xét riêng của tôi như vậy.
Bây giờ, quan trọng là làm sao
chúng ta có thể chiếu phá được sắc uẩn?
Theo Phật
giáo, sắc thân thuộc phi sở đoạn nên không cần phải phá trừ, nhưng sắc uẩn thì
cần phải chiếu phá. Vậy chiếu phá như thế nào? Khi mắt thấy hình sắc, tai nghe
âm thanh, v.v… mà chúng ta trả mắt, tai về cho căn; sắc, thanh về cho trần, và
nhãn thức, nhĩ thức về cho thức, không cho dính chùm với nhau. Trả không phải
là mắt đừng nhìn sắc, tai đừng nghe thanh mà trả bằng tuệ quán (Vipassanà ñāṇa)
để tham ưu không xen vào can thiệp. Khi ấy căn, trần, thức có mặt nhưng không
tập khởi thành sắc uẩn, hoặc nếu sắc uẩn đã tập khởi thì nó bị chiếu phá không
còn tác dụng chồng chất của uẩn nữa. Phải vậy không? Có ai nghi ngờ điều này
không?
Vậy phải soi thấy sắc uẩn chỉ là sự tương duyên
tương tác của căn, trần và thức, cho nên mới thấy sắc uẩn là không được.
2. THỌ UẨN
Bây giờ
đến thọ uẩn. Thọ thì chúng ta đã biết trong phần các biến hành tâm sở rồi nên
không cần phải nói thêm. Do sự tập khởi của sắc uẩn (xúc) nên mới có khởi lên
thọ uẩn. Thọ uẩn bao gồm khổ, lạc, xả (thuộc thân) và ưu, hỷ, xả (thuộc tâm) tập
khởi một cách phức tạp, chồng chéo, rối ren. Do duyên xúc của sắc uẩn mà phát
sinh thọ uẩn, nhưng thọ tự nó không
phải là
đối tượng để đoạn trừ vì nó chỉ là kết quả của nhân quá khứ. Hơn nữa, thọ đơn
thuần chỉ là tâm sở chưa thành thọ uẩn, khi thọ trở nên một hỗn hợp phức tạp, rối
ren, thêm thắt thì mới thành thọ uẩn.
Vậy chúng ta có thể chiếu phá thọ
uẩn ấy được không? Bằng cách nào?
Khi có khổ thọ, hoặc lạc thọ, hoặc xả thọ do duyên
xúc khởi lên, chúng ta đừng để nó trở nên rối rắm phức tạp. Đừng để tham ưu,
thủ xả xen vào, đừng phê phán, biện minh gì cả, nghĩa là “nhất niệm bất sanh”,
trả thọ về với bản chất đơn thuần (thực tánh) của nó bằng trí tuệ, thì lúc đó
khổ, lạc, xả tuy có đó mà không thành thọ uẩn được nên không có gì là rối ren
phức tạp cả.
Như vậy, thọ uẩn có thể được chiếu phá bằng tri kiến
như thực (yathābhūta ñāṇadassana), tức là trí tuệ thiền quán. Nghĩa là cảm thọ
như thế nào chúng ta như thật tuệ tri như vậy, thì bản ngã sẽ không có chỗ xen
vào.
3. TƯỞNG UẨN
Chúng ta đã
nói nhiều về tưởng tâm sở với chức năng nhận biết đối tượng trong diễn biến
tương hệ của các biến hành tâm sở. Tưởng uẩn cũng vậy, ngay khi sắc uẩn và thọ
uẩn vừa tập khởi thì tưởng uẩn cũng tập khởi trong mối liên hệ chặt chẽ. Từ một
tưởng tâm sở nguyên sơ (hiện tưởng) có đối tượng thực tánh, biểu hiện rõ nét
qua tiếp thọ, suy đạc, xác định trong tiến trình tâm ngũ môn (pañca dvāra
cittavīthi), và trong hai tiến trình ý môn tiếp trợ ngay sau đó là tiến trình
phân tích từng phần (atītaggahaṇa) và tổng hợp tổng thể (samūhaggahaṇa), đến
hai tiến trình ý môn tiếp trợ là tiến trình khái niệm định tướng đối tượng
(atthapaññatti) và tiến trình khái niệm định danh đối tượng (nāmapaññatti) là
đã trở thành tưởng uẩn với một “bộ nhớ” chứa đầy những vật khái niệm và danh
khái niệm, trong đó có cái thực cái hư, cái sai cái đúng rất phức tạp. Như
chúng ta đã biết, tưởng tâm sở đơn thuần thì không cần diệt vì nó có chức năng
nhất định không thể thiếu, chỉ cần có như lý tác ý đồng hành thì nó sẽ đúng.
Nhưng khi tưởng thành uẩn thì bắt đầu phức tạp, cần được soi sáng.
Vậy soi sáng tưởng uẩn có được
không và bằng cách nào?
Khi chúng
ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm thì tưởng giúp chúng ta nhận biết đối tượng.
Tưởng là một máy đo lường cực kỳ tiện lợi, không có kho trữ liệu với khả năng
cung cấp thông tin tức khắc của nó thì chúng ta sẽ vô cùng vất vả vì phải định
lượng mọi thứ từ đầu, chẳng khác nào một đứa trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, khi nó đã
trở nên quá phức tạp và nhầm lẫn, nghĩa là đã thành uẩn thì chiếu phá là điều tất
yếu. Vậy khi thấy, nghe tâm phải đủ sáng suốt, trầm tĩnh để tạo môi trường cho
như lý tác ý và trí tuệ quán chiếu (Vipassanā ñāṇa) hoạt động thì mới có thể
giúp tưởng không trở nên phức tạp, nhầm lẫn trong quá trình hình thành tưởng uẩn.
Như vậy có thể soi sáng tưởng uẩn
bằng như lý tác ý và trí tuệ quán chiếu.
4. HÀNH UẨN
Còn hành uẩn chính là do tư chủ động điều hành, tập
hợp các tâm sở tương ưng để tạo tác. Hành uẩn cũng do sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn
làm duyên trước mà tập khởi, lại do tư tập hợp các tâm sở mà tạo tác, nên nó
được gọi là “tập hợp tạo tác”, hành hay hữu vi (saṅkhāra). Gốc động từ [sam +
kr] à samkharoti có nghĩa là tập hợp lại, sửa soạn, tạo tác (sam: hợp chung lại).
Vậy saṅkhara có chức năng điều hợp tạo tác (nghiệp). Hành uẩn do tư chủ đạo là công
đoạn quan trọng nhất trong ngũ uẩn, thiện hay ác cũng do nó, thiên đàng địa ngục
cũng do nó, tạo nghiệp tam giới cũng do nó. Vậy muốn thoát ly tam giới thì
không những chiếu phá mà còn phải đoạn tận hành uẩn, động cơ chính của luân hồi
sinh tử.
Vậy đoạn tận hành uẩn bằng cách
nào?
Khi hành
uẩn biểu hiện ra ngoài qua thân hành, khẩu hành thì đối trị bằng chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng. Khi hành uẩn khởi động trong tâm thì đối trị bằng
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi hành uẩn đã lắng dịu, nó hoạt động
vi tế hơn qua thân tâm, lúc đó cần phải có trí tuệ (paññā) chánh kiến (sammā
diṭṭhi), chánh tư duy (sammā saṅkappa) mới hoá giải và đoạn tận được sự tạo tác
của hành uẩn .
5. THỨC UẨN
Đến đây
chúng ta đã thấy diễn tiến của bốn uẩn đầu sắc – thọ – tưởng – hành tương đương
với bốn biến hành tâm sở xúc – thọ – tưởng – tư , còn thức uẩn tương đương với
cái gì trong các biến hành tâm sở?
Thức uẩn
chính là tâm nên nó không tương đương mà lại bao hàm tất cả tâm sở, đặc biệt là bảy biến hành tâm sở kể trên luôn luôn có mặt trong thức uẩn.Thức
uẩn đóng vai trò đa năng, không những quán xuyến tất cả tâm sở mà còn có thể sinh
ra một số sắc pháp. Trong sự tập thành uẩn nó chi phối bốn uẩn còn lại. Vì vậy,
Đức Phật dạy trong kinh Dhammapāda “Trong
các pháp tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả”
- Năm thức
đầu chính là một biểu hiện đơn giản nhất của thức uẩn. Chúng chỉ hiện diện khi
xúc biến sắc thành sắc uẩn. Khi không còn thức các căn không thể thu nhận được
trần. Trừ tiếp thọ và suy đạc, các tâm khác thuộc ý thức giới.
-
Có thức uẩn
thì thọ mới biểu hiện cảm giác. Xác chết không có cảm giác.
- Có thức uẩn
thì tưởng mới tiếp thọ, suy đạc, xác định đối tượng. Người đang hôn mê bất tỉnh
hoặc xác chết không thể biết được gì cả.
- Có thức uẩn
thì tư mới điều hợp được các tâm sở tương ưng để tạo tác. Xác chết và người
hoàn toàn hôn mê không thể tạo nghiệp.
-
Và cuối
cùng thức uẩn còn thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng đó là sao
chép kinh
nghiệm vừa qua (tadālambana) để đưa vào kho tiềm thức (bhavaṅga) lưu trữ mà
chúng ta sẽ nói đến trong tiến trình tâm – sinh – vật lý (cittavīthi). Cũng vậy,
không còn thức, xác chết không thể thu thập kinh nghiệm.
Chúng ta
vừa nói đến những chức năng riêng biệt của từng uẩn và sự tương quan mật thiết
của chúng tạo thành những chuỗi duyên sinh, làm nền tảng cho những sinh hoạt đa
diện và phong phú trong đời sống con người. Chúng không phải là năm đơn vị riêng
rẽ, độc lập, mà là một tiến trình vận động hỗ tương: có uẩn này tập khởi mới có
uẩn kia, uẩn này không tập khởi thì cũng không có uẩn kia. Chính vì vậy mà “tổ hành động đa năng” này thường bị chấp lầm là bản ngã: tôi khổ, tôi vui,
tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ v.v.
và v.v. Tổ hợp ngũ uẩn này hầu như không thể tách rời ra
được trong sinh hoạt sự sống, mà chỉ có thể phân tích hay tách bạch bằng trí tuệ
để tránh mê lầm chấp ngã. Vì vậy, chiếu phá ngũ uẩn (soi chiếu để quét sạch những
vọng chấp) là phá ngã kiến, ngã thủ chính là mục đích tối hậu của những người tu
Phật.
Tuy trong tổ hợp ngũ uẩn mỗi uẩn giữ một vai trò
không thể thiếu mà vừa rồi chúng ta đã phân biệt tương đối rõ, nhưng tựu trung
cũng có cái chính cái phụ, cái trọng yếu cái thứ yếu mà chúng ta cần phải nắm vững.
Trong năm
uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì chúng ta đã biết hành do tư là tâm sở chủ
đạo, điều hợp các nhóm tâm sở tương ứng khác mà quyết định hành động thiện ác. Ở
trong vòng tam giới thì phi hữu ái, hữu ái và dục ái thường cùng với tư độc chiếm
hành uẩn để thao túng, khiến cho chúng ta khó mà thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Vậy hành chính là khâu trung tâm trong ngũ uẩn.
Chính nó là thủ phạm gây ra mọi thứ thiện ác trên đời. Nếu giải quyết được hành
là giải quyết được toàn bộ cơ cấu vận hành của ngũ uẩn.
Có câu kệ phá ngũ uẩn như sau:
"Dục sanh ư nhữ ý
Ý do tư tưởng
sanh
Không tâm các tịch tịnh Phi sắc diệc phi hành".
Dục sanh
nơi ý chính là hành (dục ái, hữu ái, phi hữu ái). Ý do tư tưởng sanh tức là tưởng
và tư. Hai câu trên chỉ rõ khâu chính của sự tạo tác trong ngũ uẩn là
hành mà hành được điều động bởi tư tưởng.
Không tâm
tức là
tâm trong sáng, đó là lúc trí tuệ soi
chiếu không để tư và tưởng tạo ra dục,
do đó thức cũng không tàng trữ kinh nghiệm. Các
tịch tịnh tức là các thọ yên ổn nhờ chánh định.
Phi sắc tức không để cho sắc hình
thành uẩn. Diệc phi hành tức là phá
được sự tạo tác của hành, không còn vô minh ái dục nữa. Như vậy là toàn bộ ngũ
uẩn đã bị phá đổ. Vậy hai câu sau của bài kệ chỉ cho chúng ta cách “chiếu kiến
ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”.
Ngũ uẩn
chỉ là sự tập khởi của một tiến trình tâm-sinh-vật lý. Trừ phi tiến trình được soi
sáng bởi trí tuệ đến bờ kia (paññā paramitā: bát-nhã ba-la-mật-đa), bằng không
ngũ uẩn thường bị vô minh chi phối, tà kiến phát sinh, từ đó ngũ uẩn trở nên phức
tạp, chồng chất, rối ren và cuối cùng bị chấp lầm là bản ngã.
Vậy bản ngã không có thực, nó chỉ là ngũ uẩn, và
trong ngũ uẩn chỉ có hành là tạo tác. Phá bản ngã thì phải thấy toàn bộ sự
vận hành của ngũ uẩn, nhất là hành uẩn. Phá bản ngã thì ngũ uẩn hết tạo
tác phức tạp, chồng chất rối ren, để trả tâm, tâm sở, sắc về với chức năng tự nhiên
và tình trạng nguyên sơ của chúng.
Nếu tác ý là như lý (yoniso) và tư được hướng dẫn bởi
trí tuệ rốt ráo thì bản ngã cùng với ngũ uẩn đều không.
Vậy ngũ
uẩn có thể sinh khởi, có thể không. Ngũ uẩn có thể sinh khởi ở người này khác, người
kia khác. Ngũ uẩn có thể thiện có thể ác v.v….
“Tâm như công họa sư / Tâm như ông thầy vẽ
Họa chủng chủng ngũ ấm (uẩn) / Vẽ các loại
ngũ uẩn
Nhất thiết thế giới trung / Hết thảy trong thế giới
Vô pháp nhi bất tạo.” / Không pháp nào không tạo
Tâm đây chính là thức có mặt trong 5 uẩn, nó chi phối
5 uẩn. Trong thế giới bản ngã này không có pháp nào nó không tạo.
Kinh Pháp Cú có dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả” cho
nên:
Thức (1) dẫn đầu, làm chủ, tạo
tác các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức (2).
Thức (2) ghi lại sự tạo tác trên, như bộ nhớ của
máy vi tính nhưng nó tinh vi phức tạp hơn, để rồi mang nội dung đã thu gom đó
tạo tác ra ngũ uẩn kế tiếp: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (3) .
Thức (3) lại thu chứa, lại khởi lên
v.v… và cứ thế ngũ uẩn chồng chất, rối ren thành
(4), (5), (6), .v.v….
Như ví dụ hôm trước, chuyện anh chàng hôm qua đánh
mình gãy răng, cho nên hôm nay vừa thấy nó đập lên vai mình một cái là mình
đùng đùng nổi giận liền. Vì sao? Là vì thức (tâm) mới khởi sinh hàm chứa kinh
nghiệm của thức quá khứ (hôm qua) cho nên không còn khách quan, trung thực được
nữa. Trong một tâm thức như vậy tất nhiên phải có mặt của phi như tác ý
(ayoniso manasikāra) vì thế các tâm sở xúc, thọ, tưởng, tư đều lệch lạc, hậu quả
là sắc, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ chồng chất lên sắc, thọ, tưởng, hành, thức
hiện tại và tất nhiên lúc đó biểu hiện giận dữ khó mà tránh khỏi.
Trái lại,
cũng anh chàng ấy xuất hiện mà tâm mình định tĩnh, trong sáng, không mảy may chấp
vào kinh nghiệm hôm qua, thấy anh ta như bây giờ vậy thôi. Một tâm thức như vậy
tất nhiên có mặt như lý tác ý (yoniso manasikāra) do đó các tâm sở xúc, thọ,
tưởng, tư không lệch lạc, nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức không bị qui định
bởi quá khứ, phản ứng đúng đắn, tốt đẹp, kết quả là sân hận không xẩy ra, phải
không? Sự kiện chồng chất cảm giác, tri giác, phản ứng, kinh nghiệm quá khứ lên
thực tại, gọi là uẩn. Uẩn tức chồng chất rối rắm lớp này đến lớp khác. Cái mà
chúng ta đã gọi là tri kiến lập tri,
Thiền Tông gọi là "đầu thượng trước đầu" (trên đầu đội thêm đầu),
"tuyết thượng gia sương" (trên tuyết bồi thêm sương). Vậy ngũ uẩn
chính là tiến trình chấp giữ kinh nghiệm. Kinh nghiệm vốn không sai,
rất hữu ích nữa là khác, nhưng chấp giữ kinh nghiệm thì trở thành ngăn ngại.
Kinh nghiệm của ngũ uẩn quá khứ chồng lên ngũ uẩn
hiện tại để tạo ra kinh nghiệm mới. Gọi là mới, nhưng thật ra hầu như không mới
gì cho lắm, trong đó đã tiềm tàng quá nhiều kinh nghiệm cũ, phải vậy không? Uẩn
là vậy, chồng chất, rối ren, phức tạp và cũng là cũ rích.
Giả dụ,
vì tức giận chuyện hôm qua nên hôm nay lại gây gổ, đánh nhau thêm một trận nữa,
cứ thế chồng chất sân hận oán thù. Đó là chưa kể tối về nằm ngủ, ý thức làm việc,
lại tự tạo tác chồng lên không biết bao nhiêu lớp nữa. Rồi cứ mỗi lần nhớ lại
chuyện đó là cơn tức giận gia tăng, dù chỉ trong tâm, chưa có hành động bên
ngoài thì vẫn là tạo nghiệp. Dễ sợ chưa? Rõ ràng bây giờ là cả một đống chỉ rối
càng ngày càng lớn hơn khó mà gỡ nổi, phải không?
Đó chỉ mới
là một chuyện điển hình, còn biết bao nhiêu là chuyện trên đời mà hàng giây,
hàng phút, hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm chúng ta chất chồng chứa
nhóm bất tận vào kho tiềm thức? Biết bao là tỵ hiềm, ganh ghét, yêu thương, sợ
hãi, hận thù, ngon ngọt, đắng cay v.v và v.v… Cho nên, ngũ uẩn nói là giai
không một cách dễ dàng, thế mà, ở đây trong mỗi chúng ta, ngũ uẩn đã trở thành
núi Tu-di rồi đó. Khiếp chưa? Liệu chúng ta phá có nổi
không đây? Có thiết bảng của Tôn Ngộ Không may ra, chứ phá làm sao cho nổi, phải
không?
Hỏi: Sắc tập hợp lại giữa 3 yếu tố căn-trần-thức,
thiếu 1 trong 3 yếu tố thì tập hợp ấy không hoạt động được, không hiện hành
được. Như vậy thì bây giờ hành giả chỉ cần làm thế nào phá đi 1 trong 3 yếu tố
đó?....Thứ hai nữa, trong trường hợp mình tập trung ý lại, ví dụ
tập trung ý vào danh hiệu Phật
thôi, thì mình có tạo được ngũ uẩn tốt hay không? (vì nó sẽ tạo cho mình một
cái thức, mà nội dung cái thức đó toàn là thiện.)
Thứ nhất,
dù khi chúng ta niệm Phật vẫn có ngũ uẩn phát sinh. Vì khi khởi tâm niệm tức là
đã có ngũ uẩn rồi. Nhưng trong trường hợp đó hành uẩn tạo tác một cách tốt đẹp.
Giả dụ, chúng ta niệm đến nhất niệm, bất loạn hay cận hành (gần an chỉ định).
Tuy vậy vẫn là tạo tác, nhưng tiến trình ngũ uẩn ấy là tiến trình tốt. Anh nói
đúng, hành uẩn không phải lúc nào cũng bất thiện, nó có thể thiện hoặc bất động
kia mà.
Điều thứ hai,
trong lúc ngủ, có thể tiến trình ngũ uẩn ở dạng tiềm ẩn, chưa khởi tác dụng,
chưa có duyên để hiện hành chứ không phải là đã bị phá. Phá là khi nào trí tuệ
soi chiếu vào tự tánh ngũ uẩn để nó không còn chồng chất tạo tác nữa, mới gọi
là phá. Không phải khi nó ngủ yên, chưa khởi gọi là phá. Khi một tiến trình ngũ
uẩn không khởi thì nó lại về trạng thái bhavaṅga. Trong bhavaṅga, ngũ uẩn không
hiện hành mà nó lại tiềm ẩn dưới dạng tiềm thức hay vô thức. Tức là ngũ uẩn
cũng ngủ! Như vậy đâu phải phá được ngũ uẩn.
Tạm thời chúng ta phân ra hai loại ngũ uẩn: ngũ uẩn
hiện hành và ngũ uẩn vô thức. Có thể phá được ngũ uẩn hiện hành bằng trí tuệ
soi chiếu, nhưng ngũ uẩn vô thức vẫn chưa phá được, vì thức uẩn đã lưu bản sao
này dưới dạng ngủ ngầm (Anusaya) trong bhavaṅga (Duy Thức gọi là chủng tử ập
khí trong tàng thức).
Thứ ba, phá ngũ uẩn bằng cách không nghe âm thanh,
không ngửi mùi hương v.v… thì có thể là tiến trình ngũ uẩn không khởi lên.
Nhưng phá là phá ngay trong khi nó đang khởi lên bằng tuệ quán (vipassana ñāṅa)
chứ không phải không cho nó khởi lên. Thu thúc lục căn là một trong những cách
kiểm sát, ngăn ngừa và gạn lọc hướng xấu của ngũ uẩn chứ không phải không cho
ngũ uẩn khởi lên. Câu “Văn thanh kiến sắc như thạch thượng tài hoa” chỉ có
ý khuyên
chúng ta không nên để căn trần dính mắc chứ không phải cắt đứt mối quan hệ căn trần.
Nên phá ngũ uẩn hữu thức trước, vừa để thức uẩn không chấp tàng thêm tập khí mới,
vừa để phát hiện tập khí đang từ vô thức khởi lên hầu chuyển hóa kịp thời những
xung động nguy hiểm này.
Như vậy,
ngăn xúc của căn-trần-thức không cho ngũ uẩn khởi lên chưa thật sự gọi là phá.
Chỉ phá bằng trí tuệ khi ngũ uẩn đang hiện khởi, thấy tướng sinh-trụ-dị-diệt,
cùng với sự bất an của chúng và thấy chúng chỉ là hiện tượng duyên khởi, không
có tự tính để không còn vọng tưởng ngã chấp. Đó là chiếu phá ngũ uẩn một cách hữu
thức. Và đó cũng là cách hữu thức hóa những tập khí vô thức tiềm ẩn dưới dạng
ngủ ngầm (tùy miên) trong bhavaṅga, cho đến khi những tập khí còn lại trong vô
thức chỉ có khả năng tuỳ thời cho quả dị thục chứ không còn là những xung động
ngấm ngầm xúi giục gây nhân tạo tác được nữa. Ngay khi thức mới
khởi lên ở đầu tiến trình ngũ uẩn để tác động lên căn trần, nó cũng chỉ là quả
chứ không phải nhân. Vì vậy, xin lặp lại là chỉ phá ngũ uẩn khi nó hiện hành
thôi, chứ không nên giữ nó lại trong vô thức bằng cách không cho nó khởi,
đó là trấn áp nó chứ không phải phá. Phân tâm học gọi đó là dồn nén, ức chế chỉ
làm gia tăng trạng thái ẩn ức chứ không phải là làm cho nó thăng hoa hoá giải.
Vậy phá ngũ uẩn là phá nhân chứ không phá quả. Phá nhân thì quả sẽ tự chuyển
hoá.
Dù dùng
thiền định cũng không phá được ngũ uẩn, vì chính thiền định là một tiến trình
ngũ uẩn vi tế. Như vậy chỉ có
thể thanh lọc cho ngũ uẩn tốt hơn chứ không phải là ngũ uẩn giai không được.”
***
Tóm lại,
bản ngã chỉ là ảo tưởng, không có thật, nhưng lại là nguyên nhân mọi phiền não
tâm lý. Nó được nuôi dưỡng bởi trạng thái vô minh, thiếu tỉnh thức của mỗi
chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Từ hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã chỉ ra
cái gọi là bản ngã ấy chỉ là một chuỗi vận hành của những yếu tố tâm-sinh-vật
lý, trong đó tuyệt nhiên không có một trung tâm hằng hữu nào ngoài ngũ uẩn sinh
diệt, tương tác. Ngài cũng chỉ cách chiếu phá bằng trí tuệ khi ngũ uẩn đang hiện
khởi, thấy tướng sinh-trụ-dị-diệt, cùng với sự bất an của chúng và thấy chúng
chỉ là hiện tượng duyên khởi, không có tự tính để không còn vọng tưởng ngã chấp.
No comments:
Post a Comment